NÉT VĂN HÓA VÀ TÍN NGƯỠNG ĐỘC ĐÁO CỦA NGƯỜI Ơ ĐU
Ảnh. Lễ mừng tiếng sấm đầu năm của người Ơ Đu |
từng có lịch sử đáng tự hào, có cát cứ địa lý riêng, có nền văn hóa
riêng, có phong tục tín ngưỡng độc đáo không xen lẫn với bất cứ tộc người nào.Trên huyện miền núi rẻo cao Tương
Dương, bản Văng Môn, xã Nga My là nơi có tộc người Ơ Đu sinh sống. Đường vào bản lên dốc xuống đèo, tựa hồ như
phải vươn tay ra vén lên lớp màn mây dày đặc thì mới đi qua được.
Bản Văng Môn nằm nép dưới những sườn đồi phủ xanh cây keo và cây trầm gió.
Không như người Mông cư trú làng bản theo hình vành
khăn, không giống người Khơ Mú cư trú theo hình tổ chim, người Ơ Đu ở Tương
Dương Nghệ An bố trí cư trú dân bản theo hình mặt tập. Qua bao thăng trầm của
thời gian và lịch sử, tộc người Ơ Đu hiện lưu lại tại đây chỉ còn trên 80 hộ,
vào khoảng 700 người sinh sống.
Lịch sử đã khẳng định, người Ơ Đu có ngôn ngữ
riêng. Những truyền thuyết của người Thái hay người Khơ Mú đều cho thấy vùng đất
thượng nguồn Nậm Nơn hay còn gọi là ( Sông Lam) xưa đều là đất do người Ơ Đu khai phá. Những
cái tên hang động, tên suối, ngọn núi còn mang đậm thanh âm của tiếng Ơ Đu.
Ngôn ngữ Phrom Ơ Đu thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ me (dòng ngữ hệ Nam Á).
Do những biến cố trong lịch sử, các thế hệ Phrom Ơ Đu còn lại bây giờ chỉ có
một số rất ít ỏi, người nói được tiếng Ơ Đu thẩm chí còn đếm được trên đầu ngón
tay .
Còn về cuộc sống cư dân thì cũng giống như
nhiều dân tộc anh em khác, người Ơ Đu ở nhà sàn. Kiến trúc nhà ở của người Ơ Đu
thường có 4 mái, lợp bằng nứa hoặc tranh cỏ, đầu nhà quay vào núi. Một ngôi nhà
thường có 4 đến 8 cột, tương ứng với 1 hay 3 gian tùy điều kiện từng gia đình.
Khi dựng, bao giờ người Ơ Đu cũng dựng cột chính (gọi là cột góc ma nhà ở) trước,
sau đó mới đến các cột khác theo thứ tự từ trái sang phải, từ trên xuống dưới.
Gia đình người Ơ Ðu là gia đình nhỏ phụ quyền. Ðàn ông quyết định tất thẩy các
công việc trong nhà. Phụ nữ không được hưởng thừa tự.
Theo tục
lệ của người Ơ Đu, khách đến nhà, đặc biệt là khách quý bao giờ họ cũng đem món
“lám nhọoc” ra tiếp đãi khách. Món “lám nhọoc” đựng trong những ống nứa có hoa
văn, bên trong chứa rau, cà, hoa chuối, lá môn trộn chung với cá, lòng cá và thịt
heo, thịt chuột... Ngoài ra còn có rượu “lậu sả thô”. Rượu “lậu sả thô” là loại
rượu làm bằng gạo nếp, đựng ủ lâu ngày cho lên men (người Thái gọi là rượu cần)
trong hũ. Đối với người Ơ Đu, “lám nhọoc” mà đem ăn sống hoặc nướng qua trên bếp,
ăn một miếng, nhấp một ngụm rượu “lậu sả thô” thì không còn gì sánh bằng!
Người Ơ Ðu sinh sống chủ yếu bằng nương rẫy và
một phần ruộng nước. Nhưng có thể nói nếp nương vẫn là loại lương thực chính. Mỗi
vụ, mỗi gia đình thường trồng vài ( ha ) lúa nương. Mỗi năm họ chỉ làm một vụ.
Các công việc phát, đốt, gieo hạt được thực hiện từ tháng 4 đến tháng 5 âm lịch,
còn vụ thu hoạch là vào tháng 9, tháng 10. Trước khi vào vụ làm nương phát rẫy
đầu mùa hay sau khi thu hoạch, người Ơ Đu cũng đều cúng Mẹ lúa, cúng thần rừng
thay cho lời cảm tạ và cầu cho mưa thuận, cho gió hòa, cho gia đình mình được ấm
êm, no đủ.
Ngoài lúa là giống cây trồng chính,
dân tộc Ơ Đu còn trồng sắn và các loại bầu, bí, ngô, đỗ. Phương tiện vận chuyển
duy nhất của họ là chiếc gùi. Gùi được đan bằng giang chắc chắn, trang trí hoa
văn đẹp mắt. Khi sử dụng, người ta khéo léo kéo dây đeo bên trán, vậy là có thể
thồ, vác được.
Những lúc không lên nương phát rẫy
cũng là dịp để những thành viên trong gia đình người Ơ Đu trò chuyện quây quần
bên nhau. Người ta hát cho nhau nghe, cùng nhau đan lát. Tiếng cười, tiếng nói
giòn tan trong sáng và lung linh hơn cả cái nắng của tiết trời mùa hạ.
Có thể nói nghề đan lát là một trong
những tập tục hiếm hoi mà người Ơ Đu vẫn còn lưu truyền và phát triển được cho
đến ngày nay. Từ những cây giang, cây mây, bàn tay khéo léo của người Ơ Đu đã tạo
nên những vật dụng mang đậm sắc thái văn hóa dân tộc.
Đó là chiếc thảm đan bằng nứa, chiếc nong phơi ngô, phơi thóc, gùi mây có dây
đeo trán hay dụng cụ đánh bắt cá riêng biệt và rất nhiều loại khác. Một phần sản
phẩm người Ơ Đu dành cho tiêu dùng, phần còn lại để trao đổi và phát triển kinh
tế.
Ngoài những việc sinh hoạt đời thường ra người Ơ Đu là tộc người duy
nhất có cuộc sống phụ thuộc vào sấm trời. Mọi việc trọng đại, lớn nhỏ trong gia
đình, trong dòng họ và kể cả công việc chung của cộng đồng cũng đều được bắt
đầu từ tiếng sấm. Sấm nghĩa là năm mới đến. Sấm nghĩa là một mùa gieo trồng mới
bắt đầu. Sấm như năng lượng mà thượng đế ban tặng cho những người con Ơ Đu yêu
dấu của ngài.
Người Ơ Đu tính thời gian trong năm bắt đầu từ ngày có tiếng sấm đầu tiên. Đây là tập tục cổ xưa của
các dân tộc thiểu số sống bằng nghề trồng trọt.
Nghi lễ đầu tiên trong ngày chămphtrong là phong sắc, phong tước
cho các chức sắc trong bản như trưởng họ, già làng, các chức sắc trong giới
thày mo và đổi tên cho những người đàn ông đã trưởng thành.
Những đứa trẻ sinh trong năm, đến ngày chăm phtrong được
các thày mo đến nhà làm lễ nhập họ và chính thức đặt tên. Nếu chưa có sấm, đứa trẻ Ơ Đu vẫn chưa được
thành người. Chỉ khi trời đất rền vang tiếng sấm đầu mùa, lúc này gia đình mới
tổ chức lễ để đặt tên cho đứa trẻ. Tuổi của đứa bé cũng bắt đầu được tính từ
đây.
Người
Ơ Đu phụ thuộc vào tiếng sấm, từ khi sinh ra cho đến lúc chết đi họ cũng phải
chờ tiếng sấm. Chỉ khi có tiếng sấm vang lên thì linh hồn họ mới được coi là
siêu thoát. Trong gia đình người Ơ Đu, khi người vợ hay người chồng không may
qua đời, họ phải làm lễ chia của và khóc cho người chết. Ngoài mâm đồ cúng lễ,
quan trọng nhất là phải có 1 đồng xu chia làm đôi. Một nửa người sống giữ lại
còn nửa kia chôn theo người quá cố. Nếu vợ hay chồng của người quá cố muốn đi
bước nữa, họ cũng phải chờ tới tiếng sấm đầu năm. Có sấm, mới bắt đầu lễ cúng,
mới xin phép được người quá cố cho đi bước nữa.
Quan niệm về thế giới vĩnh hằng của dân tộc Ơ Đu cũng gần giống với dân tộc Thái. Ngoài các then như Then Luông, Then Vi, Then Bắc còn có thêm Then Na cai quản ruộng nương. Họ cho rằng những người bị hổ ăn thịt, bị chết hoặc mất tích trong rừng không phải do ma rừng bắt mà do Then Na bắt đi làm lính hầu trông coi nương rẫy. Theo người Ơ Đu, linh hồn con người trú ngụ ở 2 nơi, một là nơi chỏm tóc, hai là nơi thân xác. Vì vậy, người Ơ Đu tuyệt đối kiêng kỵ không xoa đầu trẻ con. Tục truyền làm như vậy hồn sẽ sợ và bay đi mất, đứa trẻ do đó mà gặp vận hạn, hay đau ốm.
Người Ơ Đu rất quan tâm
chú trọng đến việc thờ cúng ma nhà. Dân gian truyền lại, ma nhà chỉ ở với con
cháu một đời theo thứ tự từ con trai cả đến con trai thứ. Nơi thờ ma nhà tại
góc hồi của gian thứ hai. Bàn thờ của người Ơ Đu đơn giản, treo cao sát mái
nhà, ở đó có bát đựng trầu, đựng cau và treo lá bùa. Người Ơ Đu quan niệm khi
trong nhà có việc chẳng lành như có người ốm đau, bệnh tật kéo dài chữa
trị không khỏi, hỏa hoạn hay có người chết, vật nuôi chết hay thất lạc,...là do
ma nhà hay hồn ở chỏm tóc phật ý mà làm hại. Lúc này, người ta mời thày mo đến
cúng ma nhà, cúng hồn chỏm tóc với nhiều lễ lạt trâu, lợn, gà, quần áo, gạo, bạc
nén, rượu cần... để hỏi xem ma nhà hay linh hồn phật ý về vấn đề gì, sau đó tiếp
tục bày lễ xám hối và cầu xin ma nhà hay linh hồn tha thứ và đừng làm hại gia
đình.
Phải nói rằng dân tộc Ơ Đu có một nền văn hóa và phong tục tín ngưỡng
rất độc đáo. Sau bao biến động của lịch sử, ngày nay
do dân số ít, phải sống xen kẽ cùng với người Khơ Mú và người Thái dẫn đến về
mặt quan hệ xã hội và văn hóa của người Ơ Đu phải chịu nhiều ảnh hưởng và đứng
trước nguy cơ mai một.
Ảnh. trang phục truyền thống người Ơ Đu |
Bài và ảnh: Lô May Hằng
VTIK huyện Tương Dương Nghệ An.
0 nhận xét :
Đăng nhận xét