Dân
tộc Tày ở huyện Đà Bắc có những quy định rất chặt chẽ trong các nghi thức tâm
linh cũng như các mối quan hệ trong việc quản lý dòng tộc và xã hội.
ở bất cứ chế độ nào,
Luật tục đó cũng không hề thay đổi. Trong phạm vi bài viết này tôi chỉ đề cập
đến Luật tục về bảo vệ và phát triển rừng.
Theo các tài liệu cổ viết bằng chữ Tày thì
rừng được chia thành nhiều loại:
Rừng
đầu nguồn( Tiếng Tày gọi là Động Ngước) là nơi trú ngụ của thần Rồng, theo
quan niệm người xưa là vị thần có nhiệm vụ cho nước sản suất và sinh hoạt, đây
là khu rừng linh thiêng được bảo vệ nghiêm ngặt. Hàng năm vào mùa khô hạn (
thường là tháng 2 âm lịch), những dòng họ lớn được quản lý rừng đầu nguồn phải
làm lễ cúng ở cạnh mó nước bằng đôi vịt hoặc con lợn và đôi gà để cầu xin “Thần
Ngước” làm nước sớm cho bà con cày ruộng (Xọ nắm phận lông hày na cá, xọ nắm phá
lông hày na mua) nghĩa là xin nước mưa với thần xuống làm mạ, xin nước trời cho
bà con làm mùa kịp thời vụ. Việc khai thác gỗ ở những khu rừng này được nghiêm
cấm hoàn toàn vì nếu đổ cây sẽ làm thần
tức giận, ảnh hưởng đến việc cung cấp nước thường xuyên. Đặc biệt là
những cây sanh, cây si hàng ngàn năm tuổi có hình thù cổ quái được coi là “nhà”
của thần( cọ hay mương phá, cọ bá mương bộn, máy pện khộn, côn pện nuột, phít
lốt bàu pện hắm) nghĩa là cây đa ở mường trời, cây si là của thượng đế ban cho,
đã có râu như cụ già, cấm chặt phá.
Loại
thứ hai được gọi là “ Động Nài” tức là Rừng thiêng, tương truyền là những
nơi xưa kia hổ báo thường đem người, trâu bò và các loại gia súc khác đến đó để
ăn thịt và để lại những bộ phận không thể sử dụng được. Những cây mọc lên trên
khu rừng này hầu hết thuộc nhóm 3, nhóm 4 như trò chỉ, nghiến nghệ, đinh, lim,
... thường rất đẹp và thẳng tắp. tuy
nhiên phía dưới tán cây thực bì lại mỏng
và đi lại dễ dàng tạo nên một không gian lạnh lẽo và ghê rợn. Một số địa phương
trong huyện “ Động Nài” lại ở ven suối sâu có các hang động và thác nước là nơi
trú ngụ của thú dữ (như xóm Tằm xã Trung Thành) nên càng tạo thêm vẻ linh
thiêng huyền bí. Gỗ ở đây không ai dám khai thác kể cả chặt cây to khoét làm
quan tài vì họ cho rằng oan hồn những người chết không toàn thây hiện hình
thành các chủng loại gỗ quý. Chúng tôi
may mắn được tham quan một khu rừng thiêng của người Thái Đen ở Mường Lò
( Yên Bái) thuộc loại Rừng thiêng Quốc gia được bảo vệ theo luật tục người Thái
rất có hiệu quả.
Loại
thứ ba gọi là “ lầu lẻ”, thực ra là nơi canh tác nương rẫy trước kia của
đồng bào Tày nhưng từ ngày phá hoang làm ruộng nước( cách nay chừng 5 thế kỷ)
rừng đang tái sinh và có xu hướng trở về thời hoang sơ.Tuy nhiên do việc giao
đất giao rừng của nhà nước làm chưa chặt chẽ nên thường xảy ra tranh chấp và bị
khai thác bừa bãi nhiều lần trong nhiều năm nên việc khôi phục lại rất khó
khăn.
Loại thứ tư là “Thắm nụ, Thắm họn” là khu rừng có các động vật quý
hiếm như don, nhím, dơi, chuột hang, rùa vàng, ... những cánh rừng này thường
có nhiều núi đá và hang động kỳ vĩ ( như Hang Nghịt, Thằm Luông, Hang Chiêu Vĩ
thuộc xã Đoàn Kết ), có nhiều cây si, cây sanh và một số loài cây mọc chênh
vênh trên vách đá có lẽ đến vài nghìn năm tuổi, thiên hình vạn dạng. Luật cũ
quy định: Khi đi săn bắt tuyệt đối không phát quang và chặt những cây có quả và
loại cỏ mà thú dùng làm thức ăn vì làm như vậy chúng sẽ chạy đi chỗ
khác hoặc tìm đến ăn lúa, hoa màu của người, không được phá bỏ những cây
sống trên vách đá vì chúng là những vị
thuốc quý cho người và động vật rừng và là cây vườn có chủ (Cháu dù huối hóng
chóng nói, động luộng thắm...) ý muốn nói tới thần rừng, thần núi trong các
hang đá
Loại
thứ năm gọi là “ Pà động sông cốt” là những nơi xa khu dân cư còn nguyên
nét hoang sơ như khu bảo tồn Quốc gia Pu Canh nằm trên địa bàn các xã Đồng
Chum, Đoàn Kết , Đồng Ruộng ( huyện Đà Bắc) cũng là nơi đầu nguồn con suối Sổ,
Suối Nhạp, ... có nhiều cá tôm và ếch quý hiếm, có loại ếch nặng tới 3 lạng.
Luật cũ quy định tránh săn bắt chúng vào mùa sinh sản ( nha kin xịa xày, báy
kịn hăng) nghĩa là không ăn cả trứng, bắt cả ổ con non.
Luật
còn quy định: Việc khai thác ở rừng cộng đồng không được tận diệt nhất
là những cây quý hiếm ( Pắm máy nha xịn cốc, váy lốc hớ pụn lặng) nghĩa là chặt
cây không nên sát gốc còn để chồi non cho lứa sau.
Đó là luật xưa, còn bây giờ, nhất là từ khi
có chủ trương “ Bung ra” tất cả các loại rừng kể trên đều bị tàn phá nặng nề
bất chấp luật lệ. ở giai đoạn trước người dân tộc phá rừng để làm nương vì
thiếu lúa gạo ăn nhưng về sau do các nhu cầu sử dụng gỗ miền xuôi tăng đột biến
nên rừng càng cạn kiệt. Mọi người đều biết lâm tặc không phải ai khác chính là
người dân tộc ở địa phương tuy nhiên việc hưởng lợi lại là các đầu nậu gỗ. Khi
không còn cây to để chặt thì họ tận thu đào cả gốc như trò chỉ, bách sanh, ngù
hương,... những cây dược liệu quý lần lượt bị khai thác tận diệt, một số đại
gia còn múc cả những sanh hàng ngàn năm tuổi đem về xuôi làm cây cảnh công
trình trang trí cho riêng mình. “Thần Ngước” cũng đã bắt đầu nổi giận khi không
còn cung cấp đủ nước cho bà con sản xuất và sinh hoạt. Một số người liều lĩnh
khai thác ở “Động Nài, Động Căm” đã gặp phải những cái chết hy hữu như trường
hợp một thanh niên ở xã Đoàn Kết bị chính anh rể đổ cây đè chết, rồi những tai
nạn thương tâm khi theo bạn bè lén lút vào rừng khai thác gỗ vẫn đang rình rập đâu đây. Tôi không muốn nói
tới yếu tố mê tín dị đoan trong Luật tục người xưa nhưng rõ ràng sự trừng phạt
của rừng là hiện hữu một khi môi trường thiên nhiên tiếp tục bị tàn phá mà
không thể ngăn chặn.
Với những gì người xưa đã làm, nên chăng
các cơ quan bảo vệ và phát triển rừng cần tìm hiểu về văn hóa Tày nhất là Luật
tục về bảo vệ rừng để giáo dục bà con có ý thức tự giác bảo vệ rừng như ông cha
thời xưa, nhất là vùng dân tộc có chữ viết như người Tày Đà Bắc.
Bài và ảnh:
Đức Chôm
Trung tâm HTCĐ xã
Trung Thành - Đà Bắc
0 nhận xét :
Đăng nhận xét