Người Dân Tộc Khơ Mú Tương Dương.
Trước khi vào định cư ở Tương Dương cách ngày nay trên dưới 200 năm ( tính đến tháng 12 – 2002). Cũng như ở Tây Bắc, đồng bào bị lệ thuộc vào dân tộc Thái và các dân tộc khác chặng hạn. Bọn phìa tạo, lang đạo, chúa đất, người Thái coi họ là những người không quê hương xứ sở, là những người không có bản mường, họ cũng từng có một quá khứ bấp bênh và đau thương như những người “họ hàng” Tầy Pọng, dân tộc Ơ Đu của mình.
Nói
rằng, người Khơmú là “họ hàng” với nhóm Tầy Pọng, Ơ Đu vì họ vốn chung gốc gác.
Trong cuộc thiên di đã được truyền thuyết “con
thuyền liền chèo” được dân gian và báo chí truyền tụng, những người Khơmú
và Ơ Đu đến định cư tại các vùng dọc theo thưởng nguồn Sông Lam thuộc các xã Hữu Khuông, Nhôn Mai, Mai sơn,
Xã Lượng, một số định cư tại xã Yên Hoà, Xiêng My (Tương Dương). Tuy nhiên một
điều mà truyền thuyết này không nói đến là có một bộ phận khác khi chạy loạn,
cướp bóc tìm đến sinh sống khắp nơi tự xưng là Khơmú. Về sau người Thái bản địa
ở Tương Dương từng gọi họ là “xơc Xã”. Tên gọi miệt thị này còn ám chỉ cuộc sống
vấn cư trú thành những bản riêng, mỗi bản có năm đến bảy nhà trên các sườn đồi
chênh vênh, có đổ cao từ 800- 1000m theo lối mật tập hay hình vành khăn, cuộc
sống chủ yếu giửa vào nương rãy, người ta có câu: “ Xã ăn theo lửa, Thái ăn
theo nước”. Họ được tự cai quản lấy
mình, được cử ra một người đại diện những người đó phải được các chức dịch thái
chấp nhận. Người Khơmú không có chữ viết riêng nhưng họ luân duy trì những
phong tục, tập quán độc đáo. Vào giai đoạn toàn cõi Đông Dương trong cuộc chiến
9 năm chống Pháp. Sau 6 thập kỷ định cư, người Khơmú đã có người đi học đại
học, có nhiều người làm cán bộ huyện, xã.
Đó
là những điều mà già bản, bí thư Đảng ủy xã Yên Na. Lương Xuân Nước đã “trang
bị” cho tôi trước khi tìm hiểu thực tế, vào bản Xốp Pu. Già Ốc Văn Khưa năm nay
tròn 90 tuổi, nói thêm rằng người Khơmú trước kia có những sự khác biệt nhất
định. Trong bản mọi người sống không ổn định nhưng mà chân thực, hiền lành, vui
vẻ, lại rất mến khách đến nhà, về văn hóa họ luân giữ gìn được phong tục tập quán
của thời trước để lại.
Trong
xã hội trước kia, người dân Khơ mú không thể định cư được ổn định mặc dù họ rất
muốn “ trồng trầu câu bén rễ, trồng hoa quả thành cây”. Vì có tư tượng phải du
canh du cư, bản làng người Khơmú tất nhiên nhỏ bé, đời sống tạm bợ. Do đó nhà
cửa cũng sơ sài, cột kèo, vách mên, tranh săng, sân bương cho đến cái lạt buộc
cũng qua loa đơn giản sao cho đứng vững từ hai đến ba năm là được. Và tất nhiên
gia cụ cũng đơn giản, chỉ có những cái tối thiểu, cần dùng hàng ngày cho cuộc
sống để khi dời nhà, dời bản khỏi phải
mang vác cồng kềnh. Thế nên nghề thủ công của họ cũng kém phát triển.
Phụ
nữ Khơ mú không biết trồng bông dệt vải. Một số người có biết dệt nhưng công cụ
dệt rất thô sơ, thường dùng nguyên liệu dệt là sợi gai để sản xuất loại vải
thô, dày, khổ hẹp chỉ dùng làm tuý đeo tay. Vì chưa biết dệt vải may quần áo
mặc nên đồng bào thường phải mang sản phẩm của mình trao đổi láy vải hay quần
áo của người Thái. Nói chung y phục của người Khơmú mặc giống người Thái. Chỉ
riêng phủ nữ, trên những chiếc áo cánh có đôi điểm còn giữ theo cách cổ truyền
của dân tộc mình đó là có trang trí những hàng tiền bạc và vỏ ốc. Đàn ông biết
đan lát một số đồ dùng rất đẹp và bền như cái ép, cái gùi, cái muống….được các
dân tộc trong vùng ưa thích. Đó là nguồn thu nhập chủ yếu của người Khơmú.
Về
văn hóa thì ngoài tiếng nói ra, gần như các tập tục khác đều đã mai một. Họ
cũng ở nhà sàn như người Thái, mà theo tập tục về nhà cửa thì phải có 2 bếp để
phục vụ đời sống thường ngày, phụ nữ mặc váy Thái. Đã áp tết, dân bản bắt đầu
ra chợ sắm sửa đón năm mới. Các nẻo đường núi nhộn nhịp hơn ngày thường. Tết
này đối với người Khơmú vẫn trăm bề khó khăn, nhưng mỗi năm chỉ có một dịp vui
duy nhất, ai cũng muốn có cái tết tươm tất. Ngày trước họ thường tổ chức tết
vào tháng 10 âm lịch hàng năm, cuộc sống nay đây mai đó, người bản không biết
đến cái tết là gì. Chỉ đến khi lập bản thấy người bản địa ăn tết nên cũng học
theo.
Theo
lời kể của ông. Moong Thanh Bình Phó chủ tich UBND xã Yên Na là đứa con của
người Khơmú kể lại, để giữ láy phong tục của mình thì các cụ cao tuổi đã hướng
dẫn con cháu dựng lại ngôi nhà sàn có 1 cầu thang. như tổ tiên người Khơ mú để
lại. Chiếc cầu thang này chỉ duy nhất dùng cho cả nhà đặt ở gian ngoài
(h’loỏng) chỉ dành riêng cho đàn ông con trai, cha mẹ và vừa là đặt một bếp nấu
ở đó để cúng cho tổ tiên vào các dịp tết đến xuân về hoặc mừng lúa mới, còn bếp
phía trong dành để tiếp khách và nấu nướng hàng ngày. Gian thứ 2-3 là nơi ăn,
ngủ, sinh hoạt của những người đứng đầu gia đình, các thế hệ sau theo thứ
bậc,vợ chồng con cả ở gian kế tiếp, những gian còn lại thuộc về các người em.
Keeir sinh hoạt này khiến nhiều người liên tưởng đến lối bố trì không gian sinh
hoạt của gia đình mẫu hệ đồng bào Tây Nguyên.
Ở
bản Xôp Pu ( Yên Na) hiện không còn nhiều nhà giữ được nếp sinh hoạt truyền
thống của họ Các bậc cha mẹ sau khi dựng vợ gả chồng thường cho con cái sớm ở
riêng, nhường nhà chính lại cho cha mẹ. Đã từ lau người Khơ mú cũng làm nhà 1
cầu thang như người Thái, thậm chí là nhà kê đất./.
Bài và Ảnh. Lô May Hằng. Tương Dương Nghệ An.
0 nhận xét :
Đăng nhận xét